Một thực tế là khi nền kinh tế của các quốc gia có thu nhập trung bình thấp phát triển, các chương trình y tế của các quốc gia này sẽ không còn được các đối tác nước ngoài tài trợ mà phải sử dụng chính nguồn ngân sách trong nước. Đây là một bước chuyển khó khăn trong bối cảnh các nguồn lực bên ngoài giảm dần trong khi gánh nặng lên ngân sách tăng lên. Đồng thời, đây cũng là nhiệm vụ của các nhà tài trợ và đối tác phát triển như Ngân hàng Thế giới để hỗ trợ các quốc gia vượt qua cuộc chuyển đổi này dễ dàng hơn.
Nhưng để yêu cầu Bộ Tài chính rót tiền trong điều kiện ngân sách hạn hẹp, chúng ta cần một cách tiếp cận thuyết phục hơn thay vì chỉ đưa ra lý do vì lợi ích sức khỏe cộng đồng.
Như ông Kenneth Mugambe, Vụ trưởng Vụ ngân sách, Bộ Tài chính Uganda, đã chia sẻ trong hội nghị: “Tôi không quan tâm đến các Điều lệ Y tế quốc tế (IHR) hay Công cụ đánh giá độc lập chung (JEE), tôi không cần biết chúng là gì. Nhiệm vụ của Bộ Y tế là đưa ra các nội dung này để giải trình (cho ngân sách).”
Vậy cần phải tiếp cận Bộ Tài chính như thế nào?
Ông Mukesh đề xuất: “Chúng ta cần thay đổi quan niệm từ “đây là sự đầu tư cho lĩnh vực y tế” sang “đây là sự đầu tư cho nền kinh tế””.
Bộ Y tế Công cộng của Thái Lan đã rất thành công với phương thức này khi đề xuất chính phủ giải ngân hàng triệu đô la để thiết lập cơ sở hạ tầng nhằm sản xuất thuốc và vắc xin phòng dịch cúm. Nguồn gốc là do dịch cúm gia cầm H5N1 đã gây thiệt hại nặng nề cho ngành chăn nuôi gia cầm của Thái Lan trong năm 2004 và có dấu hiệu gây ra bất ổn về chính trị khi tình trạng hoảng loạn bắt đầu lan rộng.
Ông Supamit Chunsuthiwat, cố vấn cho Ban phòng chống Dịch bệnh của Thái Lan, người đã góp công lớn cho thành công này, đã cho biết: “Lý do chính để chính phủ đồng ý chi tiền đầu tư là do những ảnh hưởng kinh tế và tác động của nó đối với ổn định chính trị. Nhiệm vụ của chúng tôi chỉ là đưa ra những dẫn chứng thuyết phục để củng cố luận điểm này.”
Có rất nhiều dẫn chứng có thể hỗ trợ cho luận điểm kinh tế của việc chuẩn bị ứng phó với dịch bệnh. Trong một cuộc phỏng vấn trực tiếp trên Facebook bên lề hội nghị, ông Toomas Palu, Quản lý Bộ phận Y tế khu vực Đông Á – Thái Bình Dương, Ngân hàng Thế giới, đã chỉ ra đại dịch SARS năm 2003 đã khiến 800 người thiệt mạng và gây ra thiệt hại kinh tế lên tới 54 tỉ đô la. Những thiệt hại này bao gồm thiệt hại về thương mại, du lịch, các biện pháp can thiệp của y tế cộng đồng, chi phí chẩn đoán và chữa trị.
Tương tự, những ảnh hưởng về kinh tế xã hội của dịch bệnh Ebola năm 2014 – 2015 ở Tây Phi cũng gây thiệt hại nghiêm trọng đối với các quốc gia bị ảnh hưởng. Ngân hàng Thế giới đã ước tính ba quốc gia Liberia, Guinea và Siera Leone đã phải chịu thiệt hại lên đến 2,2 tỉ đô la. Bên cạnh đó là 3,6 tỉ đô la do cộng đồng quốc tế hỗ trợ thông qua các nỗ lực kiểm soát dịch bệnh, “chi phí cơ hội” này rất lớn bởi khoản tiền này đáng lẽ có thể được sử dụng cho các hoạt động nhân đạo khác.
“Tóm lại, việc chuẩn bị ứng phó với đại dịch thực sự là vấn đề an ninh kinh tế,” ông Toomas kết luận.
Bà Stephanie Williams, chuyên gia y tế trưởng của Cơ quan ngoại giao và thương mại Úc nhấn mạnh những thiệt hại mà các đại dịch gây ra đã vượt ra bên ngoài phạm vi của lĩnh vực y tế. “Các dịch bệnh truyền nhiễm đã gây ra những ảnh hưởng về người, kinh tế và trong một số trường hợp là cả chính trị.”