Thách thức
Hệ thống giáo dục đại học Việt Nam phát triển nhanh chóng trong hai thập kỷ qua và đã tiến triển nhanh hơn cả tốc độ thay đổi khung pháp lý. Năm 1987 mới có 101 cơ sở giáo dục đại học nhưng năm 2012 con số này đã tăng lên 419 cơ sở. Việt Nam cần tránh tình trạng để giáo dục đại học phát triển tự phát, vì vậy cần phải xây dựng một hệ thống qui củ trong lĩnh vực này.
Việt Nam đã chi nhiều cho lĩnh vực này từ nguồn lực công nhưng vẫn chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu cho giáo dục đại học. Chính phủ đã nhận thấy sự cần thiết phải đổi mới tài chính công nhằm tăng cường tiết kiệm, nâng cao hiệu quả và công bằng trong chi ngân sách nhà nước, đồng thời nâng cao minh bạch và trách nhiệm trong quản lý tài chính công trong giáo dục đại học. Con số sinh viên không ngừng tăng lên cũng đặt ra đòi hỏi đối với chất lượng giảng dạy, nghiên cứu và dịch vụ công.
Giải pháp
Chương trình gồm ba khoản tín dụng chính sách phát triển được cấp một lần nhằm hỗ trợ thực hiện đổi mới giáo dục đại học một cách cơ bản, thực hiện các chính sách nhằm tăng cường quản trị, hợp lý hóa tài chính, và nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu. Chương trình cũng hướng tới tăng cường trách nhiệm nhằm nâng cao kết quả và minh bạch quản lý tài chính trong ngành.
Các văn bản luật và chính sách, trong đó có Luật giáo dục đại học, đã được hoàn thiện nhằm củng cố các kết quả đã đạt được. Kết quả đánh giá thực hiện các hoạt động cho thấy các biện pháp chính sách đã mang lại kết quả tích cực, tạo khung pháp lý giúp các cơ sở giáo dục đại học chủ động và có trách nhiệm hơn trong thực hiện nhiệm vụ đào tạo, tài chính và phát triển nguồn nhân lực của mình. Các biện pháp chính sách cũng giao nhiều quyền tự chủ hơn cho các cơ sở mà trước đây vẫn do bộ quyết định.
Kết quả
• Quản trị: Các hoạt động bao gồm hỗ trợ khung pháp lý, trong đó văn bản luật cấp cao nhất—Luật giáo dục đại học—đã được thông qua giúp cho:
- 100% cơ sở giáo dục đại học được quyền ra quyết định về số lượng tuyển sinh kể từ năm 2012;
- 100% cơ sở giáo dục đại học được quyền ra quyết định về nội dung chương trình đào tạo và mở các chương trình đào tạo mới theo nhu cầu kể từ 2011;
- 339 chương trình đào tạo liên kết được thực hiện với các trường đại học có uy tín trên thế giới.
• Tài chính: Chương trình đã góp phần làm cho:
- Doanh thu từ học phí đạt 39% tổng doanh thu các cơ sở giáo dục đại học trong năm học 2012/2013;
- Tất cả các trường đại học do Bộ GD&ĐT quản lý đã lập được báo cáo tài chính hàng năm; và
- 2,5 triệu món vay với tổng trị giá 1,2 tỉ USD đã được cấp cho sinh viên cho tới năm học 2011/2012, chiếm khoảng 75% số sinh viên.
• Nâng cao và quản lý chất lượng: Đã xây dựng các chính sách nâng cao chất lượng, hướng tới một hệ thống giáo dục dựa trên tín dụng sinh viên đã được áp dụng, qua đó đòi hỏi các trường đại học phải công khai thông tin, kết quả là:
- Cho đến năm học 2014/2015, đã có 179 trường chuyển sang đào tạo dựa trên tín dụng sinh viên;
- 301 trường đã thiết lập hệ thống quản lý chất lượng nội bộ; và
- Kể từ năm học 2013/2014, đã có hai trung tâm chứng nhận kết quả đào tạo độc lập được thành lập.