Skip to Main Navigation
Diễn văn và Bản ghi chép 5 Tháng 7 Năm 2018

Bài phát biểu khai mạc của ông Ousmane Dione, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới Tại Việt Nam

Xin chào Tiến sĩ Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI,

Xin chào ông Kamal Malhotra, Điều phối viên Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam,

Xin chào các quý vị khách từ các Doanh nghiệp trong và ngoài nước, các tổ chức trong nước và quốc tế, các hiệp hội, đại diện Ủy ban Nhân dân các tỉnh,

Xin kính chào quý vị.

Hôm nay tôi được yêu cầu nói về những xu hướng lớn (megatrends) và ảnh hưởng của chúng đến sự phát triển bền vững và cạnh tranh của Việt Nam.

Về bản chất, xu hướng lớn có tính toàn cầu hoặc khu vực, là xung lực liên tục, và tác động biến đổi mạnh đến doanh nghiệp, nền kinh tế, xã hội, văn hóa và đời sống cá nhân. Các xu hướng này định hình lại thế giới của chúng ta qua việc thay đổi quy tắc của cuộc chơi. Sự thay đổi có thể có lúc từ từ, nhưng có lúc nhanh và có tác động đột ngột.

Trong bối cảnh phát triển bền vững và cạnh tranh của Việt Nam, tôi đề xuất chúng ta tập trung vào bốn xu hướng lớn. Đó là: (i) hình thái thương mại mới, (ii) nền kinh tế tri thức, (iii) biến đổi khí hậu, và (iv) già hóa dân số. Xu thế lớn mang đến cả rủi ro cơ hội, và điều quan trọng là tìm ra cách tận dụng chúng để tạo ra lợi thế của Việt Nam.

Xu thế lớn # 1 Thay đổi hình thái thương mại. Chúng ta lưu ý rằng thương mại đang chậm lại, điều này tạo ra cạnh tranh lớn hơn cho các nước như Việt Nam. Việt Nam đã được hưởng lợi từ một khu vực FDI mạnh - là một động lực mạnh mẽ cho dòng chảy thương mại, đồng thời trực tiếp sử dụng 2.4 triệu người lao động. Tuy nhiên, các nước láng giềng, như Campuchia và Myanmar, đang nổi lên là đối thủ cạnh tranh của Việt Nam trong việc thu hút việc làm sản xuất tay nghề thấp. Trong một số trường hợp, sự thay đổi công nghệ nhanh chóng thậm chí còn dẫn đến việc công ăn việc làm quay trở về nước sở tại của FDI.

Việt Nam có thể khai thác các hình thái thương mại mới để tạo lợi thế. Nên tận dụng các thỏa thuận thương mại mới như CP-TPP, đồng thời tận dụng lợi thế của nhu cầu ngày càng tăng đối với hàng hóa gia công của một lớp người tiêu dùng đang lớn mạnh ở châu Á. Tỷ lệ hộ gia đình có thu nhập để tiêu dùng thêm ở các nước đang phát triển ở châu Á được dự báo tăng nhanh, từ 20% năm 2002 lên 80% vào năm 2030. Tại Hà Nội, chúng ta thấy các trung tâm mua sắm như Aeon Mall, Royal City và Lotte có rất đông các gia đình vào dịp cuối tuần. Các gia đình trung lưu hiện nay có thời gian và tiền bạc cho các hoạt động giải trí, và điều này sẽ chỉ tăng trong những năm tới.

Sự trỗi dậy của nền kinh tế tri thức và tự động hóa là xu hướng thứ hai. Không có gì ngạc nhiên khi người lao động thế kỷ 21 đòi hỏi phải có một nhóm kỹ năng phức tạp hơn trước đây. Tự động hóa cũng góp phần thúc đẩy điều này, do máy móc đang đảm nhận các công việc thủ công và lặp lại, cùng với đó là nhu cầu ngày càng lớn của một lớp người tiêu dùng ngày càng đông đối với các sản phẩm và dịch vụ có giá trị cao. Ví dụ, nhu cầu về lao động chân tay sẽ ít hơn, chẳng hạn như công việc bốc vác tại các bến cảng. Thay vào đó, người lao động với nhiều kỹ năng kiến thức chuyên sâu, ví dụ như hiểu biết về máy tính hay ngành logistics, sẽ là cần thiết để đảm bảo rằng các lô hàng vận chuyển chính xác và đúng giờ.

Một thách thức quan trọng ở Việt Nam là chỉ có 8% lực lượng lao động có trình độ đại học, chưa đủ để tạo bước nhảy vọt vào nền kinh tế tri thức. Các dân tộc thiểu số, người lao động lớn tuổi và một số nhóm thanh niên ở Việt Nam đặc biệt rủi ro. Trong khi một nền kinh tế tập trung công nghệ có tiềm năng mở ra cơ hội gia tăng việc làm có chất lượng tốt hơn, thì người lao động cần được trang bị bộ kỹ năng hợp lý để vượt cơn sóng này.

Xu hướng thứ ba tạo ra một rủi ro lớn cho Việt Nam, đó là biến đổi khí hậu. Tốc độ tăng nhiệt độ mỗi thập kỷ ở Việt Nam từ kể từ những năm 1960, gấp đôi so với mức trung bình toàn cầu. Mực nước biển dâng cao có thể làm cho một phần ba dân số Việt Nam có nguy cơ ngập lụt, con số này là hơn 80% ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng. Thay đổi độ mặn đe dọa 2/3 lượng cá nuôi trồng ở Việt Nam. Và sụt lún đất kết hợp với tăng độ mặn ở đồng bằng sông Cửu Long, gây nguy cơ cho sinh kế của 13,6 triệu nông dân trồng lúa. Đây là những con số thống kê nghiêm trọng.

Sự chuyển đổi trong cách chúng ta sản xuất và kinh doanh là cần thiết, và cần thiết chuyển đổi ngay. Ví dụ, các nhà sản xuất hàng hóa sơ cấp có thể quan tâm đến hạn hán, hoặc lũ lụt, cây trồng hoặc vật nuôi kháng bệnh. Các công ty khai thác du lịch có thể đa dạng hóa sản phẩm tới các vùng ít bị đe dọa bởi mực nước biển dâng cao hoặc nhiệt độ cao. Phiên thảo luận về nền kinh tế tuần hoàn sẽ là một phần quan trọng của hội nghị hôm nay, mà trong đó chúng ta cam kết tối đa hóa giá trị từ mỗi tài nguyên trong chu kỳ sản xuất.

Cuối cùng, xu thế thứ tư là già hóa dân số của Việt Nam. Tôi không phóng đại khi nói rằng Việt Nam sắp trải qua tốc độ già hóa dân số nhanh nhất trong lịch sử loài người. Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động đã lên tới đỉnh điểm và đang giảm vào năm nay. Tỷ trọng dân số từ 65 tuổi trở lên là 6,5% vào năm 2017, dự kiến sẽ đạt 21% vào năm 2050. Có nghĩa là cứ năm người thì có một người là người cao tuổi. Điều này có nhiều tác động tiêu cực đến nguồn cung lao động của Việt Nam, đến tăng trưởng năng suất dài hạn và đến lao động nữ do họ có thể chịu nhiều gánh nặng nhất trong việc phải chăm sóc người cao tuổi. Mặt khác, ngành công nghiệp chăm sóc có thể sẽ mở rộng để phục vụ cho người cao tuổi, như đang diễn ra ở các nước châu Á phát triển, châu Âu và Mỹ.

Đến đây, tôi xin đề xuất chúng ta xem xét câu hỏi sau. "Việt Nam đang bỏ lỡ hay tận dụng các xu hướng lớn?"

Chúng ta hãy hình dung như đó là Ngày lập quốc, 2/9 và sử dụng phép ẩn dụ để mô tả cuộc diễu hành sống động như là các xu hướng lớn. Chúng ta sẽ an toàn khi ở trong nhà và chỉ lắng nghe âm thanh của cuộc diễu hành bên ngoài. Và âm thanh ngày càng lớn hơn. Đó là cuộc diễu hành của xu hướng chuyển dịch các mô hình toàn cầu, và nó đang tạo ra một sự ồn ào cùng với lớp người tiêu dùng ngày càng có nhu cầu nhiều hơn, cao hơn, tiếng của máy móc trong các cơ sở sản xuất, và biến động FDI.

Việt Nam có một số lựa chọn. Chúng ta có thể đóng cửa chính và tất cả các cửa sổ và tránh xa. Thẳng thắn mà nói, tiếng ồn sẽ rất lớn và những rung động từ những bước chân mạnh đến mức chúng ta không thể sống yên ổn. Lựa chọn thứ hai là mở cửa trước và xem cuộc diễu hành đi qua. Chúng ta thậm chí có thể cổ vũ, nhưng cuối cùng vẫn là những người quan sát thụ động.

Hoặc, với lựa chọn thứ ba, chúng ta có thể quyết định tham gia vào cuộc diễu hành. Chúng ta có thể học cách điều chỉnh tốc độ của nó và tìm hiểu xem chúng ta đang ở đầu, giữa hay cuối cuộc diễu hành. Và chúng ta có thể nói chuyện với những người tham gia khác để tìm hiểu xem những gì đang diễn ra. Việt Nam sẽ theo lựa chọn nào?

Tôi rất tò mò muốn biết bạn nghĩ gì. Việt Nam đang bỏ lỡ hay tận dụng các xu hướng lớn, hay có lẽ ở đâu đó ở giữa? Vui lòng gõ địa chỉ trang web trên màn hình và cho chúng tôi biết ý kiến của bạn.

Chúng ta sẽ biết được kết quả của cuộc bỏ phiếu vào phần cuối bài phát biểu.

Chúng ta đã vừa nói về các xu hướng lớn, giờ hãy chuyển sang cách các xu hướng tác động đến Việt Nam như thế nào. Tôi tin rằng sự phát triển bền vững và cạnh tranh của Việt Nam phụ thuộc vào việc có được một nền kinh tế có khả năng chống chịu các xu hướng lớn, và đồng thời phát triển triển khai các loại vốn khác nhau. Cụ thể, có bốn loại vốn lên quan đến chúng ta: thể chế, con người, vật chất do con người tạo ra, tự nhiên.

Vốn thể chế là thành phần tạo ra môi trường thuận lợi cho khu vực tư nhân tăng trưởng. Vốn thể chế liên quan đến việc xây dựng khả năng chịu đựng cho kinh tế vĩ mô trong khi khuyến khích cải cách cơ cấu cho tăng trưởng dựa trên năng suất. Đối với Việt Nam, điều này đòi hỏi phải xác định và hỗ trợ các động lực mới của tăng trưởng, dịch chuyển để vai trò của nhà nước nhẹ hơn, và đưa ra các chiến lược phát triển FDI và thị trường vốn có hướng tới tương lai và được xây dựng dựa trên thông tin đầy đủ. Lấy hình ảnh của cơ thể của con người, chúng ta có thể coi vốn thể chế là trái tim của sự phát triển bền vững và cạnh tranh của một quốc gia. Nó bơm máu và oxy đến toàn bộ hệ thống để đảm bảo sức khỏe tổng thể của một nền kinh tế.

Vốn nhân lực là tổng hòa các yếu tố sức khỏe, kỹ năng, kiến thức, kinh nghiệm và thói quen của dân số. Vốn nhân lực có thể thúc đẩy khả năng cạnh tranh của một quốc gia, đặc biệt tại thời điểm có sự thay đổi nhanh chóng đòi hỏi số lượng người tài giỏi ngày càng tăng để duy trì tăng trưởng. Tuy nhiên, vốn nhân lực không tự cụ thể hóa; nó phải được xã hội và nhà nước nuôi dưỡng qua các vòng đời. Trong một xã hội lão hóa có nguồn cung lao động co lại, bạn có thể tưởng tượng tầm quan trọng của việc phát triển và phát triển vốn nhân lực của từng người để đạt tiềm năng cao nhất. Lấy hình ảnh cơ thể con người, có lẽ vốn nhân lực có thể được coi là bộ não của sự phát triển bền vững và cạnh tranh của một quốc gia.

Tương tự như trên, vốn vật chất hoặc do con người tạo ra là xương sống của một nền kinh tế và bao gồm đường xá, cầu, cảng, nhà xưởng, hệ thống thủy lợi và đất đô thị. Mục tiêu ở đây là phát triển và triển khai có hiệu quả các loại vốn vật chất hoặc do con người tạo, tối đa hóa vai trò của khu vực tư nhân và đảm bảo rằng dịch vụ phù hợp với nhu cầu. Nếu nghĩ về tương lai, thì cần phải xem xét tác động của thay đổi công nghệ, bao gồm giá năng lượng mặt trời sẽ thấp hơn, hệ thống vận tải công cộng khối lượng lớn chạy không có xung đột, lưới điện thông minh và các cơ hội mới cho các nền kinh tế tuần hoàn và chia sẻ.

Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là vốn tự nhiên, bao gồm đất nông nghiệp, rừng và các khu bảo tồn trên cạn, cũng như năng lượng và khoáng sản. Ở đây, mục tiêu là sử dụng hiệu quả và bền vững nguồn vốn tự nhiên, điều chỉnh giá cả và các ưu đãi để tạo ra khả năng phục hồi khí hậu, và định hướng quốc gia vào quỹ đạo phát triển carbon thấp hơn đáng kể. Ngoài ra còn có khía cạnh giới. Ví dụ, trong khi phụ nữ và nam giới có quyền bình đẳng đối với quyền sở hữu đất đai, chỉ có 18% phụ nữ được coi là chủ sở hữu duy nhất trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chỉ 22% được công nhận cùng với chồng của họ. Vì vốn tự nhiên là tất cả những gì xung quanh chúng ta, tôi đề xuất xem nó như là da, hay cơ quan lớn nhất của cơ thể, bao trùm nền kinh tế.

Điểm cuối cùng mà tôi muốn đưa ra về bốn loại vốn - thể chế, con người, vật chất hoặc được tạo ra, và tự nhiên – đó là để một quốc gia vững vàng trước các xu hướng lớn, bốn loại vốn phải được phát triển và sử dụng một cách đầy đủ, công bằng và hiệu quả. Chúng ta phải giảm chi phí phát triển tất cả các loại vốn, chúng ta phải đảm bảo rằng mọi người đều có quyền tiếp cận, và chúng ta phải tạo ra chất lượng cao nhất có thể. Một số vốn, đặc biệt là vốn nhân lực, mất nhiều thời gian hơn để phát triển nhưng có lợi nhuận cao. Vì vậy, thời gian là quan trọng và chúng ta phải hành động ngay bây giờ để giảm thiểu rủi ro hoặc nắm bắt đầy đủ các cơ hội mà các xu hướng lớn đem lại.

Bây giờ, chúng ta hãy dành một chút thời gian để xem kết quả của cuộc lấy ý kiến trực tiếp. à thảo luận về kết quả trong khoảng 30 giây.

Như tôi đã đề cập ở trên, các xu thế lớn có 2 mặt - có cả rủi ro và cơ hội. Ngân hàng Thế giới sẵn sàng hỗ trợ chính phủ và khu vực tư nhân của Việt Nam tham gia các xu hướng lớn một cách chiến lược, nói cách khác là tham gia cuộc diễu hành. Bất kể kết quả của cuộc thăm dò ý kiến như thế nào, tôi xin khẳng định rằng Ngân hàng Thế giới sẽ làm tất cả những gì có thể để đảm bảo chúng ta tham gia cuộc diễu hành với một cơ thể khỏe mạnh, một trái tim tạo thêm sinh lực cho nền kinh tế, bộ não thấu đáo, bộ xương sống chắc chắn và làn da khỏe mạnh để có thể bảo vệ cơ thể nhưng đồng thời cũng tự lành vết thương nếu chúng ta chẳng may bị thương ở đâu đó. Tôi mong được tham gia cùng các bạn trong cuộc diễu hành này.

 

Api
Api