Skip to Main Navigation
publication28 Tháng 4 Năm 2022

Đánh giá Thực trạng Nghèo và Bình đẳng của Việt Nam năm 2022 – Từ Chặng đường Cuối đến Chặng đường Kế tiếp

Nghị trình giải quyết tình trạng nghèo và bất bình đẳng đến nay không chỉ nhằm nâng cao mức sống tối thiểu và xử lý vấn đề nghèo kinh niên; mà còn phải tạo ra những hướng phát triển kinh tế mới và bền vững cho người dân có khát vọng cao hơn.

Thông điệp chính

Tuy đã có nhiều tiến triển về giảm nghèo đạt được trong giai đoạn từ 2010-2020, nhưng những thách thức ở Chặng đường cuối về xử lý tình trạng nghèo vẫn còn đó.

  • Trong thập kỷ qua, tỷ lệ nghèo đã giảm đầy ấn tượng. Tỷ lệ nghèo theo chuẩn quốc gia thu nhập trung bình thấp của Ngân hàng Thế giới (3,20$/ngày ngang giá sức mua năm 2011) giảm từ 16,8% xuống còn 5%, với trên 10 triệu người được thoát nghèo. Đại dịch COVID-19 xuất hiện đột ngột vào cuối thập kỷ đã làm ngưng trệ tiến độ tăng lương và cải thiện về chất lượng việc làm. Những tiến triển về giảm nghèo bị lùi lại nhưng không bị đảo ngược trong năm 2020.
  • Tỷ lệ nghèo kinh niên vẫn nhỉnh hơn ở một số nhóm nhất định là thách thức ở Chặng đường cuối - nhưng một số xu hướng tích cực đã xuất hiện. Tỷ lệ nghèo ở một số nhóm nghèo kinh niên đã giảm gần một nửa trong giai đoạn từ 2010 đến 2020, bao gồm các nhóm đồng bào dân tộc thiểu số và hộ gia đình ở khu vực trung du và miền núi phía bắc. Người lao động đồng bào dân tộc thiểu số đang dịch chuyển nhanh sang làm việc ở các lĩnh vực sản xuất chế tạo chế biến, với tốc độ tương đương như dân tộc Kinh ở đầu thập kỷ.
  • Ngoài người nghèo, một tỷ lệ dân số đa dạng hơn đang có nguy cơ dễ tổn thương về kinh tế. Tốc độ thay đổi nhanh chóng do phát triển kinh tế đem lại dù sao cũng khiến cho một số người bị tụt lại và bị giảm cơ hội tham gia vào các lĩnh vực năng động nhất của nền kinh tế, đồng thời tạo ra một nhóm lớn người dân không còn nghèo nhưng chưa thuộc về tầng lớp trung lưu. Cho dù rủi ro rơi vào cảnh nghèo cùng cực hiện ở mức thấp, nhưng quan ngại chính đáng của họ vẫn là được đảm bảo an ninh kinh tế ở mức cao hơn. Trong năm 2016, gần 40% người ở tầng lớp trung lưu bị tụt xuống nhóm kinh tế thấp hơn vào năm 2018.

Các hộ gia đình cần có chiến lược mới để vươn lên mức sống của quốc gia thu nhập trung bình cao và quốc gia thu nhập cao trong Chặng đường Kế tiếp.

  • Đầu tư công bằng vào vốn nhân lực là điều kiện cần để giảm nghèo bao trùm và phá vỡ xu thế nghèo liên thế hệ. Tỷ lệ hoàn thành bậc học có sự khác biệt theo đặc điểm của hộ gia đình, cụ thể là đặc điểm về dân tộc và tình trạng kinh tế. COVID-19 cũng gây ra những tổn thất lớn về học tập, với cảm nhận rõ hơn trong số trẻ em không được tiếp cận với công nghệ số. Điều đó có thể tiếp tục nới rộng khoảng cách về đầu tư cho vốn nhân lực.
  • Trở thành quốc gia thu nhập cao đòi hỏi năng suất lao động cũng cần được nâng cao. Thị trường lao động vẫn có những đặc trưng như mức lương còn thấp, khu vực phi chính thức còn lớn và các nghề đòi hỏi kỹ năng cao tăng trưởng còn chậm. Môi trường kinh doanh và giáo dục bậc cao cần tiếp tục được cải thiện sao cho nhóm dân số trẻ được tận dụng đầy đủ và có thể giúp Việt Nam hiện thực hóa đầy đủ tiềm năng tăng trưởng của mình.
  • Chính sách kinh tế nhằm duy trì tăng trưởng bền vững cần được bổ sung  bằng những chiến lược phòng vệ để tránh các hộ gia đình bị tái nghèo. Các hộ gia đình đang có nguy cơ với các cú sốc khác nhau, có thể gây tốn kém, trong khi người nghèo có nguy cơ bị rơi vào bẫy nghèo. COVID-19 cho thấy hệ thống đảm bảo xã hội đang phải đối mặt với một số thách thức về khả năng tiếp cận những cá nhân và người lao động bị ảnh hưởng nhưng nằm ngoài tầm nhìn của Chính phủ, chẳng hạn người lao động trong khu vực phi chính thức.
  • Chính sách tài khóa có thể hỗ trợ hình thành một xã hội tầng lớp trung lưu phát triển bao trùm và thịnh vượng. Qua so sánh tác động tài khóa giữa các quốc gia, chính sách tài khóa của Việt Nam đang ở mức trung bình trong số các quốc gia thu nhập trung bình thấp về hỗ trợ góp phần giảm bất bình đẳng. Gói chính sách tài khóa phù hợp có thể giúp huy động vốn phục vụ nhu cầu đầu tư cho quốc gia và người lao động để nâng cao năng suất và thu nhập, chẳng hạn nhằm hiện đại hóa nông nghiệp, cải thiện về kỹ năng và chất lượng giáo dục, hạ tầng số vững chắc hơn và các dịch vụ liên quan.

Khuyến nghị chính sách

Báo cáo kết luận bằng các khuyến nghị chính sách theo khuôn khổ phân tích từ Chặng đường cuối đến Chặng đường Kế tiếp

Những thách thức kinh niên của Chặng  đường cuối: Tình trạng nghèo tập trung ở các vùng miền và địa bàn có hoàn cảnh khó khăn đòi hỏi phải tăng cường can thiệp xóa nghèo dựa vào địa bàn, hiện đại hóa ngành nông nghiệp, và cải thiện giáo dục cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn.

  • Phân tích cho thấy các Chương trình MTQG trước đây giúp cải thiện khả năng tiếp cận dịch vụ và đem lại tác động tích cực về cải thiện phúc lợi. Tuy nhiên, vẫn còn những khoảng cách đã được chỉ ra, vì vậy các chương trình hỗ trợ theo địa bàn và hộ gia đình cần tập trung hơn vào lựa chọn đối tượng.
  • Hỗ trợ tăng trưởng năng suất nông nghiệp là chìa khóa để duy trì sinh kế cho những người vẫn ở lại với hệ thống kinh tế nông thôn đang phải đối mặt với thay đổi lớn về cơ cấu. Tiếp cận kiến thức và đổi mới sáng tạo, bao gồm áp dụng công nghệ số phù hợp là cách để hỗ trợ nâng cao năng suất theo hướng thay thế các phương thức thâm dụng lao động.
  • Để cải thiện sự tham gia của đồng bào dân tộc thiểu số trên thị trường lao động, các văn bản pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi của đồng bào dân tộc thiểu có cần được tăng cường hơn nữa. 

Đạt được những khát vọng của Chặng đường kế tiếp: Hàng triệu người đã thoát nghèo trong thập kỷ qua vào lúc này cần tiếp tục leo lên nấc thang kinh tế tiếp theo.

  • Nhu cầu đặt ra là tiếp tục cải thiện chất lượng và khả năng tiếp cận giáo dục bậc cao. Cải thiện sự phù hợp và chất lượng về nhân sự và chương trình giáo dục sau phổ thông là cách để giúp giảm khoảng cách về kỹ năng và cải thiện nhận định của các doanh nghiệp đang cho biết họ gặp khó khăn trong việc tuyển dụng những kỹ năng nhất định.
  • Trợ giúp xã hội cần được thực hiện hiệu quả hơn cho các hộ nghèo, theo hướng mở rộng phạm vi bao phủ và tăng mức hỗ trợ nhằm đạt được kết quả giảm nghèo và bất bình đẳng lớn hơn, bên cạnh tăng tổng chi đồng thời hợp nhất các chương trình hiện còn manh mún nhằm đảm bảo hiệu suất cao hơn.
  • Để huy động vốn cho nhu cầu đầu tư công để xóa nghèo đồng thời phát triển tầng lớp trung lưu được đảm bảo về an ninh kinh tế, Việt Nam có thể mở rộng cơ sở tính thu từ thuế (thuế thu nhập cá nhân, thuế tài sản), tìm hiểu việc áp dụng các sắc thuế mới để vừa tăng thu vừa xử lý những tác động ngoại ứng tiêu cực.